Xuất xứ: “TẾ SINH PHƯƠNG”
Thành phần:
Thục địa hoàng
|
30g
|
Sơn dược
|
30g
|
Sơn thù du
|
30g
|
Mấu đơn bì
|
30g
|
Trạch tả
|
30g
|
Phục linh
|
30g
|
Phụ tử
|
60g
|
Ngũ vị tử
|
60g
|
Nhục quế
|
30g
|
Lộc nhung
|
30g
|
Trong bài này Lộc Nhung giúp ôn dương, điền tinh nạp khí
Cách dùng: Các vị thuốc trên đem nghiền thành bột mịn, luyện mật làm hoàn, to bằng hạt ngô đồng. Mỗi lần uống 3-6g, mỗi ngày 2-3 lần, lúc đói, uống với nước muối hoặc rượu pha muối. Cũng có thể dùng ẩm phiến làm thang, sắc nước uống, liều dùng căn cứ tỉ lệ ở bài gốc mà chước giảm.
Công hiệu: Ôn bổ thận dương.
Chủ trị: Thận khí bất túc, sắc mặt xạm đen, chân phù mà lạnh, tai ù hoặc điếc, tay chân gầy guộc yếu đuối, đầu gối lỏng lẻo, tiểu tiện bất lợi, sống lưng đau nhức.
Giải thích bài thuốc: Trong bài này thục địa tư bổ thận âm; sơn thù du, sơn dược tư bổ can tì, phụ trợ tư bổ phần âm trong thận; nhục quế, phụ tử ôn bổ thận dương. Phục linh, trạch tả lợi thủy thấm thấp; đan bì thanh tả can hỏa, khiến bổ mà không đọng nhờn bẩn, ôn mà không táo; lộc nhung, ngũ vị tử ôn dương, điền tinh nạp khí. Toàn bài chiếu cố đồng thời cả ôn lẫn nhuận, tráng dương mà không thương tổn âm, đạt được công hiệu ôn bổ thận dương.
Bàn luận: Đặc điểm then chốt để biện chứng bài thuốc này là tinh thần yếu đuối suy nhược, người rét chân tay lạnh, đái trong và dài, lưỡi nhạt rêu mỏng trắng, hai xích mạch đều vi tế hoặc phù đại. Ngày nay thường dùng bài thuốc này để điều trị viêm thận mạn tính, phì đại tuyến tiền liệt,ban đêm đái nhiều, sau khi đẻ bí tiểu tiện, điếc do thần kinh, bế kinh chức năng, suy thoái chức năng sinh dục, chứng suy nhược sớm. Nếu dưởng tổn tới âm, mồ hôi như tắm, hai má đỏ dậy, thì gia thêm qui bản, miết giáp, mạch đông; đầu mụ mắt mờ nặng thì gia thêm câu kỉ tử, thủ ô, bạch thược, suyễn khó thở, cựa thì suyễn nhiều, thì gia thêm bổ cốt chi, đại giả thạch, trầm hương, nhân sâm; di tinh thì gia thêm phúc bồn tử, kim anh tử; tiểu tiện không nín được thì gia thêm ích trí nhân, tang phiêu tiêu, đoán mẫu lệ.
Người họng khô miệng táo, sốt hẹn giờ mặt đỏ, tiểu tiện nóng đỏ, lưỡi đỏ ít rêu, mạch tế sác, thuộc về thận âm bất túc, hư hỏa thượng viêm thì không nên dùng bài này.
Bài thuốc cùng tên
- “BÁCH NHẤT TUYỂN PHƯƠNG” Thập bổ hoàn. Là do phụ tử, hồ lô ba, mộc hương, ba kích thiên, xuyên luyện tử, huyền hồ sách, nhục quế, tất trừ già, đại hồi hương, bổ cốt chi họp thành. Công năng ôn hàn chỉ thống. Chủ trì hàn sán (ND – đau ruột non)
- “THÁI BÌNH HUỆ DÂN HÒA TỂ CỤC PHƯƠNG” Thập bổ hoàn. Là do phụ tử, nhục quế, ba kích thiên, bổ cốt chi, bào khương, viễn chí, thỏ ti tử, xích thạch chi, hậu phác, xuyên tiêu hợp thành. Công năng ôn thận trợ dương. Chủ trị chân nguyên hư tổn, hạ nguyên bất túc, vùng rốn bụng đau cứng, thắt lưng và chân đau, mồ hôi trộm, vong huyết (ND- mất máu do nôn, đại tiểu tiện ra huyết ..v..v…) di tinh, bạch trọc, tiểu tiện vặt luôn luôn, tiêu khát, liệt dương.
- ‘TẠP BỆNH NGUYÊN LƯU TÊ CHÚC” Thập bổ hoàn. Là do phụ tử, phòng phong, hồ lô ba, mộc hương, ba kích thiên, nhục quế, quyên luyện tử, diên hồ sách, tất trừng già, bổ cốt chi, muối, hắc đậu tổ thành. Công năng ôn hàn chỉ thống. Chủ trị hàn sán quyết lãnh, liệt dương, bôn đồn (ND – bệnh thận phát cơn luống khí từ bụng xông ngược lên, đau xoắn, choáng váng…)
(Nguồn: Eco Siberia)